Tuesday, March 31, 2009

Hình thái kinh tế - xã hội

Một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ một cấu trúc xã hội ở từng giai đoạn lịch sử, dựa trên một phương thức sản xuất nhất định với kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho cơ sở kinh tế của xã hội và với một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên cơ sở đó. Các HTKT - XH đã có trong lịch sử qua các chế độ xã hội khác nhau (công xã nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa) là những nấc thang kế tiếp nhau trong quá trình phát triển của nhân loại như một quá trình phát triển lịch sử tự nhiên. Không phải tất cả các quốc gia dân tộc đều tuần tự trải qua tất cả các nấc thang của quá trình phát triển xã hội nói trên. Trong những hoàn cảnh lịch sử và điều kiện kinh tế - xã hội nhất định của thời đại, có những quốc gia dân tộc có thể bỏ qua một hoặc hai nấc thang của quá trình phát triển xã hội để tiến thẳng lên một hình thái cao hơn. Mỗi HTKT - XH cũng là một "cơ thể xã hội" cụ thể, bao gồm trong đó tất cả các thành phần vốn có và các hiện tượng xã hội trong sự thống nhất hữu cơ và sự tác động biện chứng. Mỗi một HTKT - XH đều có cấu trúc phổ biến và tính quy luật chung, có những mối liên hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng, giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Sự tác động lẫn nhau giữa các thành phần cơ bản nói trên là động lực bên trong thúc đẩy sự vận động của HTKT - XH và sự tiến bộ lịch sử, làm chuyển biến xã hội từ HTKT - XH thấp lên HTKT - XH cao hơn, thường là thông qua những chuyển biến có tính cách mạng về xã hội.
Trước hết cần khẳng định sự ra đời của chủ nghĩa xã hội hiện thực là hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động, phát triển khách quan của lịch sử xã hội, phù hợp với tiến trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội. Cho dù đến nay, chủ nghĩa xã hội vẫn chưa xuất hiện ở những nơi mà chủ nghĩa tư bản đã phát triển đến trình độ cao. Theo học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Mác thì lực lượng sản xuất, xét đến cùng, bao giờ cũng là cái đóng vai trò quyết định trong việc thay đổi phương thức sản xuất, dẫn đến thay đổi toàn bộ các quan hệ xã hội, thay đổi một chế độ xã hội mà Mác gọi là hình thái kinh tế - xã hội. Trên cơ sở đó, Mác đi đến kết luận: xã hội loài người phát triển trải qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái kinh tế - xã hội. Và tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng tiến lên của các hình thái kinh tế - xã hội, là sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. Mác khẳng định: “tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên”(2). Mặc dù khẳng định quá trình lịch sử tự nhiên của các hình thái kinh tế - xã hội là tiến trình bị quy định bởi các quy luật khách quan, nhưng Mác cũng luôn luôn cho rằng, con người “có thể rút ngắn và làm dịu bớt những cơn đau đẻ”. Điều đó có nghĩa là, trong quan niệm của Mác đã hàm chứa tư tưởng: quá trình lịch sử - tự nhiên của sự phát triển xã hội chẳng những có thể diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn có thể diễn ra bằng con đường bỏ qua một giai đoạn phát triển nào đó, một hình thái kinh tế - xã hội nào đó trong những điều kiện và hoàn cảnh khách quan cụ thể nhất định.

Như vậy về mặt lý luận, chúng ta có thể khẳng định sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là quy luật khách quan trong quá trình phát triển của dân tộc, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của lịch sử và xu thế phát triển của thời đại. Chúng ta đã chứng kiến sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu và đã trải nghiệm những thành công của công cuộc đổi mới chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc. Theo chúng tôi trong những nguyên nhân dẫn đến thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây có nguyên nhân xa rời bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tách rời tính cách mạng với tính khoa học trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Có thể nói, học thuyết về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và về khả năng xây dựng chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là bộ phận quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác-Lênin. Là một học thuyết khoa học và cách mạng, học thuyết Mác - Lênin đã đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ cách mạng của thời đại, phản ánh chính xác những nhu cầu cơ bản cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nhằm thay đổi thế giới và giải phóng con người. Để hoàn thành sự nghiệp vĩ đại đó, các Đảng cộng sản phải vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin trong tiến trình cách mạng, nhất là trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở những nước lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, quá độ dần lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đã có không ít người hoài nghi tính đúng đắn của học thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội. Các thế lực phản động quốc tế coi sự sụp đổ đó là “sự cáo chung” của toàn bộ lý luận mác xít về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ và khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong tình hình cực kỳ khó khăn phức tạp như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã thể hiện mạnh mẽ sức sống của chủ nghĩa xã hội hiện thực và thu được những thành tựu ngày càng to lớn. Thắng lợi của đường lối đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hai mươi năm qua đã cho thấy, những luận điểm, tư tưởng cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở lý luận, là kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề không phải là bản thân lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta có nhận thức thật sự đúng đắn bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và biết vận dụng một cách sáng tạo nó trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội hay không. Thực tiễn cho thấy, công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu thì chúng ta càng phải đối diện với những vấn đề khó khăn, phức tạp mới. Đất nước hiện đang đứng trước cả cơ hội lớn và thách thức lớn. Tất cả đều đòi hỏi chúng ta phải nhận thức lại cho đúng, vận dụng sáng tạo, bổ sung và phát triển lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp với bối cảnh mới của thế giới và trong nước hiện nay. Vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã ngày càng làm sáng tỏ con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta thời kỳ đổi mới. Đó là con đường “phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền tảng kinh tế hiện đại”(3).

Rõ ràng, chúng ta đang trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa với phương thức “phát triển rút ngắn” nhằm đạt tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, đương nhiên là một sự nghiệp to lớn, lâu dài, đầy khó khăn phức tạp. Nhưng thực tiễn luôn luôn là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn hai mươi năm đổi mới đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, đã hoàn thành những nhiệm vụ cơ bản của chặng đường đầu của thời kỳ quá độ và bước sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta đang tiến lên phía trước, bởi chủ nghĩa xã hội đổi mới của Việt Nam là biểu hiện sinh động sự thống nhất biện chứng giữa thuộc tính khoa học và thuộc tính cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là không gì có thể ngăn cản nổi, bởi vì đó là quy luật tiến hóa khách quan của lịch sử, lại đang được Đảng ta nhận thức và vận dụng sáng tạo. Quán triệt bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phát huy tính độc lập, sáng tạo, đồng thời kế thừa tinh hoa trí tuệ dân tộc, những kinh nghiệm và thành tựu khoa học, văn hóa của thế giới, nhất định chúng ta sẽ xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng chung của những người cộng sản và nhân dân thế giới. Với thành công ngày càng to lớn của công cuộc đổi mới, đất nước ta, một lần nữa trở thành nơi gửi gắm niềm tin và sự kỳ vọng của bạn bè quốc tế. Việt Nam hôm nay đang được nhìn nhận một cách đầy ngưỡng mộ: “Đường lối đổi mới trong đó kết hợp kinh tế thị trường với kế hoạch, tiến lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở công nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế là con đường của những người mở đường mới mẻ trong lịch sử... hy vọng rằng Đảng cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam, đã từng chiến thắng trong cuộc đấu tranh đầy gian khổ trước đây, sẽ thành công trước thách thức mới trên chặng đường mà chưa một ai đi qua”(4).

4. Kết luận

Bất chấp thăng trầm của lịch sử, từ khi ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác-Lênin luôn luôn tỏ rõ sức sống mãnh liệt của mình. Thực tiễn thành công và thất bại của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã minh chứng hùng hồn: bản chất khoa học, cách mạng là nguồn gốc sức mạnh của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ khi ra đời cho đến nay, nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin mà Đảng ta đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Chủ nghĩa xã hội đổi mới Việt Nam đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt của mình và ngày càng thu được những thành tựu to lớn. Điều đó trước hết bắt nguồn từ bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trung thành với bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhất định Đảng ta sẽ lãnh đạo nhân dân ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội của thời kỳ đổi mới gắn với dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB CTQG, HN, 2006 tr.70.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, NXB CTQG, HN, 1995, Tập 23 tr. 21.
3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB CTQG, HN, 2001 tr.84.
4. Lời chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng cộng sản Việt Nam, NXB CTQG, HN, 2001, tr.53.

Làm tiểu luận

Theo GS, TS Hoàng Văn Châu Nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ chủ yếu của sinh viên trong các trường đại học. Một trong những thể hiện của nghiên cứu khoa học là viêt luận văn khoa học.

Luận văn khoa học là chuyên khảo về một vấn đề khoa học hoặc công nghệ do một người viết nhằm mục đích:
- Rèn luyện về phương pháp và kỹ năng nghiên cứu khoa học;
- Thể nghiệm kết quả của một giai đoạn học tập hay một vấn đề khoa học quan tâm;
- Bảo vệ công khai trước Hội đồng hoặc được chấm để lấy bằng tốt nghiệp đại học hoặc học vị thạc sỹ, tiến sỹ

Luận văn khoa học bao gồm:

- Tiểu luận môn học, Thu hoạch (báo cáo) thực tập: là báo cáo về một vấn đề thuộc một môn học hay một vấn đề thực tiễn tại một đơn vị nào đó nhằm rút ra những kết luận hay đóng góp ý kiến, đề xuất giải pháp để thực hiện hay cải tiến vấn đề nêu ra, có độ dài không quá 30 trang;

- Khoá luận tốt nghiệp hay Đồ án tốt nghiệp: là chuyên khảo mang tính chất tổng hợp, thể nghiệm kết quả sau một khoá đào tạo đại học thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn hay khoa học kỹ thuật, được chấm hay bảo vệ để lấy bằng cử nhân hay kỹ sư, có độ dài khoảng 80 trang;

- Luận văn Thạc sỹ: là chuyên khảo sâu về một vấn đề khoa học, công nghệ, kỹ thuật hoặc quản lý cụ thể, chứng tỏ học viên đã nắm vững kiến thức đã học, nắm được phương pháp nghiên cứu và có kỹ năng năng thực hành về vấn đề nghiên cứu, có độ dài khoảng 100 trang và được bảo vệ trước Hội đồng để lấy học vị thạc sỹ.

Mục đích chính của luận văn là học tập, phản ánh kết quả học tập, đồng thời cũng là một công trình nghiên cứu khoa học, thể hiện lao động khoa học nghiêm túc, độc lập, sự tìm tòi, sáng tạo của người viết, những ý tưởng khoa học của người viết. Luận văn là một công trình khoa học nên đòi hỏi phải được thực hiện nghiêm túc và phải đạt yêu cầu: luận văn phải có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn; số liệu và các nguồn trích dẫn phải chính xác và đáng tin cậy; văn phong mạch lạc, chuẩn xác; được trình bày đúng quy định và thể hiện người viết có phương pháp nghiên cứu.

Để viết một luận văn, cần tiến hành các bước sau đây:

1- Lựa chọn và đặt tên đề tài luận văn:

Đề tài luận văn có thể do Khoa, Bộ môn, các thầy, cô giáo gợi ý hay do bản thân sinh viên đề xuất nhưng không được trùng lặp với các đề tài đã được nghiên cứu trước đó. Tốt hơn cả là sinh viên tự tìm hiểu, suy nghĩ và đề xuất vấn đề nghiên cứu trên cơ sở ý thích, năng lực, sở trường, mối quan hệ … hay những ý tưởng đã hình thành trước đó của mình.

Những ý tưởng nghiên cứu thường được hình thành khi: nghe giảng trên lớp; đọc sách báo; trao đổi, tranh luận với các nhà khoa học, đồng nghiệp; thực tập, thực tế tại các cơ quan, công ty; suy nghĩ ngược lại những quan điểm thông thường; nhận dạng những vướng mắc trong hoạt động thực tế; nghe thấy sự kêu ca phàn nàn của những người khác; đi dạo …

Trên cơ sở những ý tưởng nghiên cứu, sinh viên sẽ tiến hành lựa chọn và đặt tên cho đề tài.

Để đảm bảo cho chất lượng luận văn, đề tài phải:

- Có ý nghĩa khoa học: bổ sung cho lý thuyết của bộ môn khoa học; xây dựng cơ sở lý thuyết mới hoặc làm rõ một số vấn đề lý thuyết đang tồn tại … ; những phát triển mới nhất về vấn đề nghiên cứu …

- Có giá trị thực tiễn: giải quyết các vấn đề, khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh, quản lý … ; xây dựng luận cứ cho các chương trình phát triển kinh tế-xã hội của ngành, của địa phương …;

- Có tính khả thi : có đủ điều kiện cho việc hoàn thành đề tài, như: cơ sở thông tin, tư liệu; phương tiện thiết bị thí nghiệm, nếu cần; có người hướng dẫn khoa học và các cộng tác viên khác; có đủ thời gian…;

- Phù hợp với sở thích, sở trường của người nghiên cứu .

Việc đặt tên đề tài một cách chuẩn xác là rất quan trong vì tên đề tài chỉ rõ đối tượngphạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu trả lời cho câu hỏi nghiên cứu cái gì, còn phạm vi nghiên cứu chỉ rõ giới hạn về mặt không gian, thời gian và quy mô của vấn đề nghiên cứu. Tên đề tài phải ngắn, gọn, súc tích, ít chữ nhất nhưng chứa đựng nhiều thông tin nhất. Ngôn ngữ dùng trong tên đề tài phải rõ ràng, chuẩn xác để có thể được hiểu theo một nghĩa duy nhất, không được tạo khả năng hiểu thành nhiều nghĩa. Không nên đặt tên đề tài luận văn bằng những cụm từ có độ bất định cao về thông tin, như:

- Vài suy nghĩ về …

- Thử bàn về …

- Về vấn đề …

- Góp phần vào

Cách đặt tên đề tài mập mờ trên đây chỉ thích hợp cho một bài báo chứ không thích hợp cho một công trình khoa học, như luận văn, luận án và các công trình khoa học khác. Trong quá trình xác định tên đề tài, sinh viên nên tham khảo ý kiến của các thầy cô giáo hoặc người hướng dẫn.

2- Xây dựng đề cương và kế hoạch nghiên cứu:

a- Xây dựng đề cương: Trên cơ sở tên đề tài đã được thông qua, sinh viên xác định đối tượng, mục tiêu, phạm vi nghiên cứu và lập đề cương nghiên cứu. Đề cương nghiên cứu cũng chính là bố cục của luận văn, bao gồm các chương, mục phản ánh đối tượng và phạm vi nghiên cứu từ đầu đến cuối một cách logic. Nguyên tắc phải tuân thủ khi xây dựng đề cương là: tên các chương phải phù hợp với (thể hiện) tên đề tài; tên các mục lớn trong chương phải phù hợp với tên chương; tên các mục nhỏ phải phù hợp với tên các mục lớn … Đối với một luận văn khoa học, đề cương nghiên cứu, ngoài phần mở đầu và kết luận, thường gồm 3 (ba) chương.

Chương 1 thường đề cập đến những vấn đề lý luận chung, như: khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng, những vấn đề cơ bản của vấn đề nghiên cứu; Khái quát hoá các lý thuyết, học thuyết có liên quan đến vấn đề nghiên cứu (đối với khoá luận tốt nghiệp hay luận văn thạc sỹ) …

Chương 2 thường dành để phân tích tình hình, thực trạng của vấn đề nghiên cứu, nguyên nhân của những yếu kém, khuyết điểm …

Chương 3 nêu lên quan điểm, phương hướng, mục tiêu hay dự báo tình hình phát triển và đề xuất các giải pháp, phương pháp giải quyết vấn đề. Trong mỗi chương không nên có quá nhiều mục lớn mà nên bố cục khoảng 3 mục.

Các chương, mục của luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ được trình bày như sau:

Chương 1: …………………

1.1. …………………

1.1.1.………………..

1.1.2.………………..

1.1.3………………………

1.2………………..

1.2.1………………

1.2.1……………..

1.3……………………..

1.3.1……………….

1.3.2……………….

1.3.3…………………

Chương 2…………………..

2.1…………………………

2.2…………………

2.3………………..

Chương 3……………………

Đối với Thu hoạnh thực tập tốt nghiệp hay Khoá luận tốt nghiệp … có thể dùng chữ số Lamã I, II, III để thay cho 1.1., 1.2., 1.3. … Đề cương không nên xây dựng quá chi tiết, vì trong quá trình nghiên cứu còn có thể có những thay đổi phụ thuộc vào nguồn tài liệu, vào những phát hiện mới của tác giả.

b. Xây dựng kế hoạch nghiên cứu: Cùng với đề cương, sinh viên phải xây dựng kế hoạch nghiên cứu , chỉ rõ nội dung công việc và thời gian hoàn thành.

3- Trình đề cương cho người hướng dẫn để xin ý kiến:

Sinh viên gặp người hướng dẫn khoa học với đề cương đã được chuẩn bị sẵn để xin ý kiến. Người hướng dẫn có thể góp ý để chỉnh sửa, bổ sung cho đề cương nhằm đảm bảo tính chuẩn xác của tên đề tài, sự đúng đắn và đầy đủ của nội dung nghiên cứu, tính hợp lý và logic của bố cục, tính cập nhật của các thông tin khoa học có liên quan … . Trên cơ sở đó sinh viên, học viên sửa chữa, hoàn thiện đề cương.

4- Sưu tầm, lưu trữ tài liệu, lập danh mục tư liệu, làm thí nghiệm … :

Nguồn tài liệu liên quan đến đề tài nghiên cứu có thể tìm thấy tại thư viện, hiệu sách, trên tạp chí chuyên ngành, báo cáo, thông tin khoa học, báo chí, qua internet, các cơ quan, công ty … thông qua bạn bè, người quen … Trong quá trình thu thập tài liệu phải ghi chép, lưu trữ cẩn thận, đặc biệt là nguồn của các tài liệu, bài viết có liên quan, như: tên tác giả, tên tạp chí hay báo đã đăng tải, số, ngày tháng, phát hành, năm xuất bản … để lập thành Danh mục tư liệu và sau này đưa vào Danh mục tài liệu tham khảo.

5- Viết luận văn khoa học:

Sau khi có tương đối đầy đủ tư liệu, trên cơ sở đề cương chi tiết đã được thông qua, có thể bắt đầu viết luận văn. Việc này tốt nhất nên thực hiện trên máy vi tính, theo phông chữ thông thường Vn-Times (TCVN3) hoặc Times New Roman (Unicode), khổ chữ 13 hoặc 14, có thể bắt đầu từ Lời nói đầu hay từ Chương 1.

5.1. Nội dung của luận văn:

Luận văn, dù sắp xếp chương mục như thế nào, cũng phải có những bộ phận và nội dung cơ bản theo thứ tự : bìa chính, bìa phụ, mục lục, lời nói đầu, các chương, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, nếu có.

a- Bìa chính và bìa phụ: có nội dung hoàn toàn giống nhau và được viết theo thứ tự (từ trên xuống): Tên trường; tên Khoa, bộ môn; Tên luận văn khoa học (Khoá luận tốt nghiệp, Thu hoạch thực tập tốt nghiệp …); Tên đề tài; Tên người viết và người hướng dẫn khoa học (góc phải); Nơi thực hiện, năm … Bìa chính là tờ bìa cứng ngoài cùng có màu khác nhau theo quy định (KLTN của ĐH Ngoại thương: bìa đỏ, chữ vàng). Bìa phụ là trang đầu tiên của luận văn.

b- Mục lục: Mục lục gồm khoảng 02 trang tiếp ngay sau bìa phụ, ghi rõ tên các chương, mục với vị trí trang tương ứng, giúp người đọc có thể xem nhanh những nội dung chính của luận văn và mở đọc những mục cần thiết. Không nên ghi mục lục quá chi tiết để khỏi chiếm nhiều trang mà chỉ nên ghi đến một mục nhỏ sau một mục lớn là đủ.

c- Lời nói đầu: Đối với hầu hết các loại luận văn, lời nói đầu thường chỉ gói gọn trong 1-2 trang, nói rõ lý do chọn đề tài, mục đích, mục tiêu của viêc nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, tên các chương và dự kiến kết quả đạt được, cùng với lời cám ơn những người đã giúp đỡ mình trong quá trình làm luận văn. Riêng đối với khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sỹ và luận án tiến sỹ, lời nói đầu thường được viết dưới dạng các mục, như: Tính cấp thiết của đề tài; Mục đích và mục tiêu nghiên cứu; Tình hình nghiên cứu; Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ; Phương pháp nghiên cứu; Những đóp góp mới của luận án; Kết cấu của luận văn, luận án.

d- Viết các chương: Như đã nói ở trên, luận văn thông thường được kết cấu thành ba chương với số trang của các chương gần bằng nhau để đảm bảo tính cân đối của luận văn. Nội dung của các chương cần có các tiêu đề, mục lớn, mục nhỏ đầy đủ, rõ ràng, tránh sử dụng quá nhiều dấu ký hiệu: #, *, -, + … trong luận văn. Cuối mỗi chương nên có kết luận từ 7 - 10 dòng về các vấn đề đã đề cập trong chương đó bằng các cụm từ, như: Tóm lại, Nhìn chung,… Qua phân tích trên có thể rút ra kết luận

e- Kết luận của luận văn: Phần kết luận của luận văn phải để ở một trang riêng, tổng hợp tất cả các kết luận rút ra được từ việc nghiên cứu đề tài cùng với một vài giải pháp chủ yếu nhất, những khuyến nghị, dự báo xu hướng phát triển, với độ dài từ 1-2 trang. Đây là những điều khảng định hay kết luận cụ thể về các vấn đề chủ yếu được đề cập trong cả ba chương của luận văn mà tác giả rút ra được sau khi nghiên cứu, được đánh số thứ tự 1, 2, 3 … hay gạch đầu dòng (-) mà không kèm bất kỳ một lời bình luận nào. Ví dụ: Sau khi nghiên cứu đề tài, có thể rút ra một số kết luận sau đây: Những kết luận này là phần rất quan trọng của luận văn, cùng với các giải pháp, kiến nghị đề xuất, đây chính là kết quả nghiên cứu đề tài của tác giả. Do vậy, tác giả phải dành nhiều thì giờ, suy nghĩ nghiêm túc để viết chính xác và cụ thể phần kết luận này.

Cần phân biệt Kết luận với Tóm tắt. Người viết bài này đã từng gặp, trong nhiều luận văn, luận án, thay vì kết luận thì tác giả lại tóm tắt luận án và tự khen mình bằng những lời bình luận. Trong Kết luận cũng không nên nói lời cám ơn vì lời cám ơn đã được đưa vào Lời mở đầu hay đã có trang riêng như trong luận văn thạc sỹ hay luận án tiến sỹ.

f- Tài liệu tham khảo: Tài liệu tham khảo bao gồm tất cả các tác phẩm kinh điển, giáo trình, sách tham khảo, luật lệ, nghị quyết, thông tư, báo cáo, các bài báo … bằng các thứ tiếng khác nhau mà tác giả đã tham khảo khi nghiên cứu và có dẫn chiếu trong luận văn.

Danh mục tài liệu tham khảo phải được ghi theo đúng quy định sau đây:

- Tài liệu tham khảo phải xếp riêng theo từng ngôn ngữ, theo thứ tự Việt, Anh, Pháp, Nga (đánh số liên tục) … Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài phải giữ nguyên văn;

- Tài liệu tham khảo bằng tiếng Việt phải xếp theo thứ tự ABC của tên tác giả, bằng tiếng nước ngoài xếp theo ABC của họ tác giả. Nếu tài liệu không có tên tác giả thì xếp theo chữ cái đầu tiên của cơ quan ban hành hay phát hành ấn phẩm đó.

- Nguồn tài liệu phải có các thông tin: tên tác giả hoặc cơ quan phát hành; năm xuất bản (để trong ngoặc đơn); tên sách (in nghiêng) hoặc tên bài báo (đặt trong ngoặc kép, không in nghiêng); nhà xuất bản, nơi xuất bản (đối với sách); tên tạp chí (in nghiêng), số (trong ngoặc), trang … (nếu là bài báo).

Ví dụ cách ghi như sau:

1. Hoàng Văn Châu (2003), Vận tải-Giao nhận hàng hoá xuất nhập khẩu, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, TP HCM.

2. Võ Nhật Thăng (2002), “Trách nhiệm của người giao nhận khi phát hành vận đơn FBL”, Visaba Times, (42), tr. 14-15.

3. Đinh Xuân Trình (2002), Thanh toán quốc tế trong ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.

Các tài liệu tham khảo đánh số như trên cũng phải được trích dẫn vào luận văn ở những những chỗ cần thiết bằng cách dùng dấu móc vuông [ … ].

g- Phụ lục: Phụ lục là những bảng , biểu, số liệu, sơ đồ, hình vẽ, kết quả điều tra, khảo sát … có tác dụng chứng minh, minh họa cho các nội dung của luận văn mà nếu đưa vào luận văn thì không đẹp và chiếm nhiều trang nên được đưa vào phần cuối cùng của luận văn và không tính số trang. Phụ lục này cũng có thể được đánh số thứ tự và phải đánh số trang.

5.2. Văn phong của luận văn khoa học:

Luận văn khoa học phải được viết bằng một thứ tiếng Việt chuẩn xác, rõ ràng, mạch lạc. Khác với các bài phóng sự, tả cảnh, bút chiến … , văn phong của luận văn phải thể hiện sự nghiêm túc, giản dị, khoa học. Trong luận văn, người nghiên cứu chủ yếu đưa ra, trình bày các sự kiện, những luận cứ, luận chứng, một cách khách quan, rồi phân tích, lập luận, chứng minh để rút ra những kết luận có sức thuyết phục, tránh thể hiện tình cảm yêu, ghét đối với đối tượng nghiên cứu và tránh dùng nhiều tính từ, lối so sánh, ẩn dụ, ví von … Lời văn trong luận văn khoa học chủ yếu được dùng ở thể bị động, nên tránh dùng đại từ nhân xưng, như tôi, chúng tôi, em … mà thay vào đó có thể dùng tác giả, người viêt luận văn này

5.3. Hình thức và cách đánh máy:

Luận văn khoa học, từ bìa cho đến các trang nội dung, phải được đánh máy và trình bày một cách chân phương, nghiêm túc, trên giấy trắng khổ A4, không mùi bằng mực đen. Tuyệt đối không được thêm các hình vẽ ở các trang bìa, cũng như không được kẻ thêm vạch hay viết thêm tên người hướng dẫn, tên tác giả ở phía trên và phía dưới ở các trang bên trong. Các kiểu chữ sử dụng cũng phải chân phương, không rườm ra, màu mè, cầu kỳ, bay bướm. Luận văn chỉ được đánh máy trên một mặt của trang giấy, dùng kiểu chữ Vn-Times (TCVN3) hoặc Times New Roman (Unicode), cỡ 13 hoặc 14, dãn dòng 1,5 line, lề trên 3 cm, lề dưới 3,5 cm (nếu đánh số trang ở dưới), lề trái 3,5 cm, lề phải 2 cm. Một trang như vậy chỉ khoảng 27 dòng.

6. Bảo vệ luận văn

Luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ bắt buộc phải bảo vệ trước Hội đồng do Hiệu trưởng hay Bộ trưởng ký quyết định thành lập. Khoá luận hay đồ án tốt nghiệp đại học có thể được bảo vệ hay chấm. Tại trường ĐHNT từ năm học 2005-2005 (K40), các Khoá luận tốt nghiệp (KLTN) phải được bảo vệ trước Hội đồng gồm 03 thành viên. Để bảo vệ tốt luân văn, cần tiến hành tốt các công việc sau:
6.1. Viết tóm tắt luận văn:

Tóm tắt luận án tiến sỹ có độ dài 24 trang (khổ nhỏ), phản ánh trung thực nội dung chủ yếu của luận án, được gửi cho các nhà khoa học và các cơ quan để nhận xét. Tóm tắt luận văn thạc sỹ khoảng 15 trang được dùng trong buổi bảo vệ. Tóm tắt KLTN có độ dài từ 8-10 trang do sinh viên viết để trình bày trước Hội đồng trong vòng 10 phút. Yêu cầu của tóm tắt là ngắn gọn, cô đọng, nêu được cấu trúc của đề tài, nêu bật được những nội dung chính của khoá luận, nhấn mạnh được những nội dung cần thiết, những kết luận rút ra sau khi nghiên cứu đề tài cùng với các giải pháp, đề xuất, kiến nghị. Trước buổi bảo vệ, sinh viên nên trình bày thử để đảm bảo không vượt quá 10 phút.
6.2. Bảo vệ trước Hội đồng:

Sinh viên phải trình bày trước Hội đồng một cách rõ ràng, mạch lạc (tốt nhất không cầm giấy đọc) thể hiện mình nắm chắc vấn đề nghiên cứu, đảm bảo không vượt quá thời gian cho phép. Sau khi nghe trình bày, các thành viên Hội đồng sẽ đặt câu hỏi để kiểm tra kiến thức và cho điểm. Điểm đánh giá của các thành viên Hội đồng sẽ theo các tiêu chí: hình thức, cách đánh máy; ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài; phương pháp nghiên cứu; nội dung khoa học của khoá luận; việc trình bày trước Hội đồng; việc trả lời câu hỏi của sinh viên.

Một luận văn được đánh giá là tốt, không những phải có nội dung (có giá trị khoa học và thực tiễn) mà còn phải có bố cục hợp lý, cân đối, hình thức đẹp, trình bày và đánh máy đúng quy định cũng tức là thể hiện tác giả có biết cách nghiên cứu. Ngoài ra, đề tài mới mẻ, có tính thời sự, ít người nghiên cứu, người viết có những ý tưởng sáng tạo và độc lập … cũng được đánh giá cao.

Để viết tốt luận văn, người viết phải cần cù, chịu khó, say mê trong nghiên cứu khoa học, luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, suy nghĩ về vấn đề nghiên cứu, cũng như người leo núi phải không sợ mỏi gối, chồn chân đi trên những con đường gập ghềnh của khoa học thì mới đạt tới “đỉnh cao xán lạn”.

SOURCE:

http://www.ftu.edu.vn/portal/page/portal/portaldhnt/70137?item_id=102424&p_details=1

Thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ Chủ nghĩa tư bản lên Chủ nghĩa xã hội

Chúng ta và cả cộng đồng nhân loại vừa được chứng kiến những giây phút lịch sử của sự kiện chuyển giao thế kỷ. Thế kỷ XX, thiên niên kỷ thứ hai đầy biến động đã qua để giờ đây, chúng ta và cả cộng đồng nhân loại bước sang thế kỷ XXI, thiên niên kỷ thứ ba cũng sẽ lại chứa đầy những biến cố lịch sử mới.

Là những người có may mắn được hưởng niềm vui lớn lao ấy trong cuộc đời con người, chúng ta hoàn toàn có quyền tự hào rằng thế kỷ XX là thế kỷ phát triển rực rỡ nhất của loài người trong thiên niên kỷ thứ hai. Đó là thế kỷ mà khoa học và công nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đời sống vật chất và tinh thần của con người được nâng lên gấp bội. Nhưng đó cũng là thế kỷ có nhiều sự kiện đau buồn như đã diễn ra hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt các cuộc xung đột vũ trang khiến cho cả cộng đồng nhân loại phải hứng chịu biết bao tổn thất nặng nề. Dấu ấn nổi bật và đậm nét của thế kỷ này là những thắng lợi trong cuộc đấu tranh cách mạng kiên cường, giành độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên phạm vi toàn thế giới, được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại - cuộc cách mạng mà "trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế".

Thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã "mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế giới" và như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Cách mạng Tháng Mười đã mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CHXH trên toàn thế giới".

Vào các năm 1957 và 1960, Hội nghị quốc tế các Đảng Cộng sản và Công nhân xác định: Nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Tuy nhiên, kể từ đó, việc nghiên cứu, nhận thức nội dung cơ bản ấy của thời đại chúng ta đã không tránh khỏi bị chi phối bởi sự thăng trầm của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và của hệ thống XHCN. Những năm 80 về trước, thắng lợi không thể phủ nhận được trong công cuộc xây dựng CHXH ở hàng loạt nước trong hệ thống các nước XHCN, trước hết là Liên Xô, đã xuất hiện một khuynh hướng tuyệt đối hóa những thành quả đạt được trong công cuộc xây dựng CHXH, đã hình thành một quan niệm về thời đại dựa trên những ảo tưởng có thể nhanh chóng thủ tiêu chủ nghĩa tư bản và thúc đẩy một cách chủ quan quá trình cách mạng XHCN, không phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Ngược lại, vào những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, khiến phong trào cách mạng XHCN thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, đã có không ít người vấn nuôi hy vọng đi tới CHXH bằng con đường bằng phẳng, êm ả rốt cuộc lại nhanh chóng rơi vào tâm trạng bi quan, thất bại chủ nghĩa, nên đã vội vàng phủ nhận nội đung và tính chất cơ bản của thời đại hiện nay.

Đương nhiên là chúng ta không được phép dửng dưng trước sự khủng hoảng, đổ vỡ ở hàng loạt nước trong hệ thống XHCN. Chẳng lẽ, sự khủng hoảng, đổ vỡ của chế độ XHCN không đưa ra lời cảnh tỉnh nào đối với những người cách mạng hay sao? Song, nếu vì thế mà đã vội vàng đi đến kết luận rằng nội dung và tính chất của thời đại đã thay đổi thì thật là một sai lầm lớn.

Nhiều năm đã qua, sau sự biến động nói trên, thực tiễn đã và đang diễn ra trên thế giới cho phép chúng ta khẳng định rằng, sự sụp đổ đó không có nghĩa là sự sụp đổ của CHXH với tư cách là một học thuyết khoa học và cách mạng, kim chỉ nam cho sự nghiệp giải phóng hoàn toàn và triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức và giải phóng con người, xây dựng XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Sự sụp đổ ấy cũng không phải là sự sụp đổ của phong trào XHCN thế giới, vì hiện nay các nước XHCN ở Châu Á và châu Mỹ Latinh vẫn tiếp tục giành được nhưng thắng lợi to lớn, không những trụ vững mà còn có bước phát triển mới rất quan trọng. Ngay ở các nước trước đây là XHCN, tuy Nhà nước XHCN không còn, nhưng ý thức hệ XHCN và các lực lượng XHCN vẫn tồn tại và tất yếu sẽ tìm ra phương thức phù hợp với thực tiễn của mỗi nước để tổ chức lại và tiến bước theo tiến trình phát triển lịch sử của nhân loại.

Phong trào XHCN thế giới đang ở một khúc quanh lịch sử, một bước thụt lùi lớn, song chắc chắn rằng "loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử". Dù cho hiện nay có những đảo lộn rất lớn, nhưng những đảo lộn ấy không làm bánh xe lịch sử quay ngược lại, không hề làm thay đổi tính chất và nội dung căn bản của thời đại hiện nay được mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Khẳng định đó của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn toàn đúng và có cơ sở vững chắc. Bởi lẽ, thời đại là một phạm trù lịch sử có tầm bao quát rộng lớn và phản ánh tổng quát một giai đoạn lớn của lịch sử, mang ý nghĩa cơ bản về sự vận động của thế giới, cũng như của mỗi cộng đồng quốc gia dân tộc. Một thời đại cụ thể, suy đến cùng, là tổng hoà những nhân tố lịch sử cấu thành, là sự xác nhận của lịch sử với tính hợp quy luật đối với sự tồn tại của một chế độ xã hội nhất định.

Khi phân tích mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản thông qua những biến đổi về kinh tế và chính trị của nó, C.Mác đã chỉ ra logic khách quan tất yếu dẫn tới sự phủ định của chính CNTB và sự ra đời của CHXH - giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội mới, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Quan niệm đầy đủ về một thời đại mang tính quá độ đòi hỏi chúng ta phải có sự nhận thức đúng đắn về địa vị của cả CHXH lẫn CNTB trong thế giới thực tại. Điều đó không hề làm mất đi trong nhận thức và quan điểm của chúng ta sự cần thiết phải phê phán tính chất phản động về chính trị của các thế lực tư bản, đế quốc. Hơn nữa, nó không làm mất đi tính cảnh giác trước âm mưu và hành động "diễn biến hoà bình" của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, bóp nghẹt các phong trào giải phóng dân tộc. Với tư duy biện chứng, trước sau như một, chúng ta tuyên bố sự diệt vong không thể tránh khỏi của CNTB thế giới và sự ra đời tất yếu của CHXH trên toàn thế giới

CNTB vẫn mang trong mình những mâu thuẫn đối kháng vốn có, những nhân tố chứa đựng sự bùng nổ xã hội sâu sắc, song nó hiện nay vẫn là một chế độ xã hội đang tồn tại CHXH với nhưng thành tựu đã đạt được trong gần một thế kỷ đã, đang và vẫn chứng tỏ trước loài người khả năng và triển vọng phát triển của mình. Với tư cách là một sự kiện lịch sử vừa mới xác lập và đang còn là những thử nghiệm ban đầu, sự đổ vỡ mất mát của CHXH đầu là hiện thực, song đó chỉ là tạm thời. Phong trào XHCN thế giới đầu đang ở giai đoạn thoái trào, song rồi đây nó sẽ phục hồi và phát triển. Lịch sử luôn luôn là một chuỗi liên tục của quá trình phát triển. Ph.Ăngghen đã từng nói không có chế độ nô lệ cổ đại thì không có CNXH hiện đại. Lịch sử vừa đòi hỏi con người hành động sáng tạo, lại vừa tạo ra những tiền đề cho quá trình sáng tạo mới của con người. Lịch sử chứng tỏ rằng, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới không diễn ra trong một thời gian ngắn và theo một con đường thẳng tắp. Cũng như mọi thời đại khác trong lịch sử, nó có tiến, có thoái, quanh co khúc khuỷu, nhưng cuối cùng loài người nhất định sẽ đi đến một xã hội tốt đẹp, văn minh, dân chủ, tiến bộ hơn chế độ TBCN đó chính là chế độ XHCN và cộng sản chủ nghĩa. Sự phát triển xã hội diễn ra theo tiến trình lịch sử tự nhiên như các nhà sáng lập CHXH khoa học đã khẳng định. Đó là xu thế tất yếu không thể đảo ngược được của lịch sử.

Mặc dù đã có biết bao biến cố lớn lao diễn ra trong hơn một thập kỷ qua mà biến cố lớn nhất là sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu, song thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CHXH trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Đó là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CHXH gắn liền với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật chất - kỹ thuật ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên CHXH.

Để đi tới mục tiêu ấy của thời đại, hơn bao giờ hết, trong giai đoạn hiện nay, nhân dân các nước càng phải ra sức cùng nhau đoàn kết đấu tranh chống các thế lực thù địch của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CHXH càng phải tỉnh táo trước âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình" của chúng hòng duy trì vĩnh viễn sự thống trị của CNTB trên hành tinh này.

Lịch sử Việt Nam hơn 70 năm qua với sự lựa chọn con đường giải phóng dân tộc đi vào quỹ đạo cách mạng vô sản, đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc nhằm giải phóng và thống nhất Tổ quốc Việt Nam, đặc biệt là thắng lợi của con công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cách mạng nước ta vừa thể hiện, vừa góp phần thúc đẩy trào lưu chính của thời đại ngày nay - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CHXH trên phạm vi toàn thế giới.

Khúc quanh hiện nay của lịch sử cách mạng thế giới, dù có làm cho sự quá độ từ CNTB lên CHXH trên toàn thế giới bị kéo dài thêm, song không thể đảo ngược được xu thế của thời đại. Con đường của thời đại, con đường mà nhân loại đang đi tới chính là con đường thắng lợi của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CHXH.

Nhận thức đúng và làm rõ nội dung, tính chất của thời đại ngày nay là cơ sở quan trọng để chúng ta hoạch định đúng đắn đường lối và sách lược của chúng ta và "chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước nọ"như V.I.Lênin đã từng khẳng định.
Tạp chí Triết học

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Đối với Việt Nam, được soi sáng bởi tư tưởng của Tuyên ngôn nói riêng và chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung, gần 80 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua biết bao khó khăn thử thách, huy động được mọi nguồn lực của đất nước, kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, giành thắng lợi vẻ vang trong cách mạng dân tộc dân chủ và đang từng bước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mục đích cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn: đó là giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách áp bức bóc lột, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nội dung của đường lối đổi mới chính là thể hiện sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới. Đại hội VI (12-1986) của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức cán bộ; từ đổi mới phương pháp lãnh đạo đến phong cách công tác; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới chính trị, tư tưởng, văn hóa... Đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Song đó hoàn toàn không phải là sự thay đổi mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả hơn bằng những quan niệm đúng đắn và những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Đổi mới tư duy là nhằm loại bỏ những quan niệm sai lầm, khắc phục những nhận thức lạc hậu, lỗi thời về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện mới. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của toàn bộ hệ thống chính trị để bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Toàn bộ thành tựu của công cuộc đổi mới ở Việt Nam và những diễn biến trên thế giới vừa qua chứng minh rằng, trước tình hình có nhiều thay đổi, thời cơ và thách thức luôn luôn xuất hiện, nếu không kiên định lập trường, xa rời những vấn đề có tính nguyên tắc sẽ dẫn đến đổ vỡ không gì cứu vãn được. Mặt khác, nếu tự bằng lòng với những nguyên lý lý luận sẵn có, xơ cứng giáo điều, không đi sâu tìm tòi, tổng kết thực tiễn để kịp thời điều chỉnh thì sẽ không tận dụng được thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức để đưa đất nước tiến lên. Sức sống của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản không chỉ ở những luận điểm, nguyên lý chung mà còn được thể hiện ở việc bổ sung, vận dụng sáng tạo vào các hoàn cảnh lịch sử cụ thể để giành thắng lợi.

Thành công của công cuộc đổi mới ở nước ta trước hết được thể hiện ở lĩnh vực kinh tế. Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng cơ bản của Tuyên ngôn là: "Trong mọi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra - cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy"(4). Với quan niệm đó, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trước hết là, và trọng tâm là quá trình xây dựng, phát triển kinh tế. Nhìn lại hơn 20 năm qua, đường lối xây dựng kinh tế của Đảng ta đã có bước phát triển về nhận thức lý luận. Từ tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung chuyển sang tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ xây dựng chế độ sở hữu đơn nhất chuyển sang chế độ đa sở hữu bình đẳng cùng phát triển, trong đó công hữu là nền tảng, kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Từ Nhà nước độc quyền quản lý, can thiệp trực tiếp vào kinh tế chuyển sang Nhà nước quản lý bằng chính sách, pháp luật, kế hoạch, lực lượng vật chất và một số công cụ khác. Từ phân phối bình quân, cào bằng chuyển sang phân phối theo lao động, kết hợp với các hình thức phân phối khác theo mức độ đóng góp thực tế vào quá trình tạo ra của cải và qua phúc lợi xã hội. Từ quan niệm công bằng theo kiểu bình quân trong phân phối thu nhập chuyển sang quan niệm công bằng về cơ hội phát triển, trên cơ sở Nhà nước và xã hội tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển. Từ tư duy kinh tế khép kín sang tư duy kinh tế mở, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập, v.v...

Những đổi mới tư duy trong lĩnh vực kinh tế nói trên là xuất phát từ thực tiễn nước ta, một nước nghèo nàn, kinh tế lạc hậu, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất còn thấp kém. Do đó, trước hết phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại và phát triển trong một thể thống nhất, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nó đòi hỏi phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Đây là hai nội dung của mục tiêu phát triển nhanh và bền vững trong tất cả các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường ở nước ta. Tăng trưởng kinh tế đồng thời với phát triển xã hội, văn hóa, giáo dục, vì mục tiêu phát triển con người, mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Nhà nước có vai trò tổ chức, dẫn dắt và tạo điều kiện cho sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Cùng với đổi mới về kinh tế, hệ thống chính trị của nước ta cũng được từng bước đổi mới một cách vững chắc. Xuất phát từ các giá trị lý luận về nhà nước và pháp luật trong Tuyên ngôn và các giá trị phổ quát của nhân loại về xây dựng nhà nước pháp quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Đây là một yêu cầu khách quan, bắt nguồn từ định hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta ý thức sâu sắc rằng, để thực hiện được định hướng xã hội chủ nghĩa thì phải có một Nhà nước pháp quyền mạnh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính khách quan đó còn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập và hợp tác kinh tế quốc tế đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực và hiệu quả. Mặc dù trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin không trực tiếp dùng thuật ngữ "nhà nước pháp quyền", nhưng những tư tưởng cơ bản của nó đã được đề cập một cách sâu sắc. Đó là tư tưởng về xây dựng một nhà nước kiểu mới, hoạt động trên cơ sở pháp luật với một nền pháp chế dân chủ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản C. Mác và Ph. Ăng-ghen đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, trong đó Nhà nước có trách nhiệm tổ chức đời sống chung của nhân dân, bảo đảm sự phát triển tự do tối đa và "phát triển toàn diện con người". Tự do trong Tuyên ngôn được C. Mác quan niệm "là biến nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn toàn phục tùng xã hội". Đây thực sự là tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới với bản chất là nền dân chủ mới, dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm xây dựng một Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước và giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Phương thức hoạt động của Quốc hội về tổng thể phải dựa trên hai trụ cột chính là các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội, những người được nhân dân bầu ra và hoạt động vì nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, tức là chấp hành Hiến pháp, các đạo luật và nghị quyết do Quốc hội ban hành và báo cáo công tác trước Quốc hội, chịu sự chất vấn và giám sát của Quốc hội. Chính phủ phải trong sạch, được sự tin tưởng và tín nhiệm của nhân dân. Đồng thời Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, đứng đầu hệ thống cơ quan hành pháp, có trách nhiệm tổ chức thực thi Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội, quản lý vĩ mô đối với toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động. Chính phủ có cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, đa năng, hiệu lực và hiệu quả, không can thiệp cụ thể vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Trong quan hệ với quyền tư pháp, Chính phủ không can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án, kể cả việc xét xử các vụ án hành chính.

Các cơ quan tư pháp có trách nhiệm bảo vệ pháp luật bằng việc áp dụng đúng đắn luật và các văn bản dưới luật. Có thể xem cơ quan tư pháp như là bộ phận chuyển tải quyền lực nhà nước thể hiện trong pháp luật vào đời sống thông qua việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể. Nếu "lực" được thể hiện đầy đủ, đúng đắn qua hoạt động lập pháp và lập quy, nhưng hệ thống truyền "lực" qua hoạt động tư pháp không tốt thì bộ máy nhà nước ấy vẫn là bộ máy nhà nước kém hiệu lực, hiệu quả. Trong các cơ quan tư pháp, Tòa án giữ vị trí trung tâm; tất cả các cơ quan tư pháp khác như điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, giám định pháp y...) đều phục vụ cho hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án là nơi biểu hiện tập trung tính chất dân chủ và công khai trong hoạt động bảo vệ pháp luật. Ở đó, con người tìm thấy lẽ công bằng, tính nhân đạo, thiện và ác một cách trực tiếp và cụ thể qua các sự kiện pháp lý cụ thể. Do đó, xây dựng Tòa án mạnh là một bộ phận trọng yếu của xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tòa án phải đổi mới tổ chức và hoạt động sao cho bảo đảm trên thực tế nguyên tắc "khi xét xử, thẩm phám và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật". Đồng thời phải từng bước mở rộng thẩm quyền của Tòa án để hướng đến giải quyết được hầu hết mọi tranh chấp xuất hiện trong đời sống xã hội.

Với vai trò là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị, lại là một thành viên của hệ thống chính trị, hơn 20 năm qua Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình. Công tác xây dựng Đảng được xem là nhiệm vụ then chốt. Công tác này tập trung vào việc nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đồng thời coi trọng xây dựng và củng cố tổ chức, kiện toàn đội ngũ cán bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách công tác. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C. Mác và Ph. Ăng-ghen cho rằng những người cộng sản khác quần chúng nhân dân ở hai điểm cơ bản: gương mẫu trong thực tiễn và phải có trình độ lý luận. Các ông viết: "Vậy là về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận kiên quyết nhất..., là bộ phận luôn luôn thúc đẩy phong trào tiến lên về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản"(5). Vì thế, nâng cao trình độ lý luận và sự gương mẫu trong hoạt động thực tiễn luôn luôn là đòi hỏi đối với đảng viên và là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện ngày nay.

Kỷ niệm 160 năm ngày Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, nhìn lại chặng đường hơn 20 năm đổi mới ở nước ta, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn và tin tưởng vững chắc vào các giá trị của Tuyên ngôn về những nguyên lý cơ bản của thế giới quan cách mạng, về các phương pháp luận khoa học trong việc xem xét và giải quyết các vấn đề thực tiễn. Đó là cơ sở lý luận và phương pháp luận để Đảng ta tổ chức và lãnh đạo cách mạng nước ta đi tới thắng lợi. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, học thuyết Mác - Lê-nin nói chung, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng, luôn luôn sinh động và không ngừng phát triển. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là tuyên ngôn của thời đại đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bất công, xây dựng một xã hội ngày càng tốt đẹp.

Giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đối với giai cấp công nhân nước ta

Giá trị lý luận và thực tiễn lớn lao của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đối với giai cấp công nhân nước ta

Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội.

Chủ nghĩa xã hội thế giới đang trải qua một thời kỳ khủng hoảng nghiêm trọng. Các thế lực thù địch nhân cơ hội này ráo riết tấn công vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, từ đó phủ nhận chủ nghĩa xã hội. Trong tình hình đó, việc nghiên cứu một cách nghiêm túc và có hệ thống “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, luận giải nó trong tình hình hiện nay là vấn đề mang tính thời sự cấp bách về lý luận, chính trị để giữ vững lòng tin có cơ sở khoa học vào sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của các nhà tư tưởng tư sản và bọn cơ hội “đục nước béo cò...”.

“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do C.Mác và Ph.Ăng-ghen soạn thảo (từ tháng chạp năm 1847 đến tháng giêng 1948) đến nay đã tròn 161 năm. Đây là tác phẩm quan trọng nhất của chủ nghĩa Mác sau bộ Tư bản. Trong Tuyên ngôn, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã phân tích một cách hết sức sâu sắc xã hội tư bản chủ nghĩa, cơ cấu giai cấp - xã hội của nó và khởi thảo ra vấn đề sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.

Xác định đặc điểm, nội dung của Tuyên ngôn, trong lời tựa đề cho lần xuất bản thứ 3 bằng tiếng Đức (1883), Ph.Ăng-ghen đã viết: “Tư tưởng cơ bản và chủ đạo của Tuyên ngôn là: trong mỗi thời đại lịch sử, sản xuất kinh tế và cơ cấu xã hội - cơ cấu này tất yếu phải do sản xuất kinh tế mà ra, cả hai cái đó cấu thành cơ sở của lịch sử chính trị và lịch sử tư tưởng của thời đại ấy; do đó (từ khi chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy tan rã), toàn bộ lịch sử là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa những giai cấp bị bóc lột và những giai cấp đi bóc lột, giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị, qua các giai đoạn của sự phát triển xã hội; những cuộc đấu tranh ấy hiện nay đã đến một giai đoạn mà giai cấp bị bóc lột và bị áp bức (tức là giai cấp vô sản), không còn có thể tự giải phóng khỏi tay giai cấp bóc lột và áp bức mình (tức là giai cấp tư sản) được nữa, nếu không đồng thời và vĩnh viễn giải phóng toàn thể xã hội khỏi ách bóc lột, ách áp bức và khỏi những cuộc đấu tranh giai cấp”(1).

Quan điểm có tính khoa học đó đã giáng một đòn chí mạng vào chủ nghĩa xã hội không tưởng, trong việc giải thích các hiện tượng xã hội. Xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã xây dựng luận điểm hết sức đúng đắn là: sự xuất hiện các giai cấp trong xã hội và theo sau đó là sự đối kháng giữa các giai cấp đều do sự phát triển về kinh tế của xã hội gây ra; sự xuất hiện của chế độ tư hữu và sự thay đổi về các hình thức của nó là cơ sở của quá trình lịch sử đó. Quy luật xã hội cơ bản được dùng làm cơ sở cho lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.

Những nhà lý luận trước C.Mác chỉ mới xác định về mặt kinh nghiệm sự kiện cuộc đấu tranh giai cấp và ảnh hưởng của cuộc đấu tranh đó đối với đời sống kinh tế và chính trị - xã hội. Còn C.Mác trong khi cùng xuất phát từ các sự kiện về cuộc đấu tranh giai cấp, đã chỉ ra cơ sở kinh tế của nó và vạch ra một lý luận hoàn chỉnh. Sự khác nhau căn bản giữ C.Mác với các nhà không tưởng trước ông là ở chỗ đó. C.Mác đã gắn cuộc đấu tranh giai cấp với từng mặt phát triển kinh tế của xã hội. Ông phát hiện ra mối liên hệ bên trong của sự tồn tại các giai cấp, của tính chất và nội dung cuộc đấu tranh giai cấp, gắn với các giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất. Nhờ đó vấn đề đấu tranh giai cấp trong xã hội, đặc biệt là trong xã hội tư bản chủ nghĩa đã được giải quyết về mặt lý luận.

Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đưa ra quy luật phát triển cơ bản về mặt xã hội của các xã hội có đối kháng giai cấp. Tuyên ngôn chỉ ra: “Lịch sử tất cả các xã hội cho đến ngày nay (tức là toàn bộ lịch sử thành văn) chỉ là lịch sử đấu tranh giai cấp”(2). Kết cấu xã hội của xã hội bao giờ cũng phản ánh phương thức sản xuất đi theo với sự đối kháng giữa các giai cấp mà nó vốn có. Phương thức sản xuất quyết định yếu tố tồn tại về mặt xã hội của giai cấp. Vai trò của một giai cấp trong việc tổ chức lao động của xã hội bắt nguồn từ đó.

Trên cơ sở ấy, C.Mác và Ph.Ănng-ghen đã phân tích một cách khách quan xã hội tư bản chủ nghĩa, đánh giá đúng đắn vai trò chủ nghĩa tư bản, của giai cấp tư sản và những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản tạo ra. Tuyên ngôn vạch rõ: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ kia gộp lại”(3). Từ sự phân tích quá trình sản sinh và phát triển của chủ nghĩa tư bản, lột trần những mâu thuẫn nội tại cố hữu của nó và sự đối kháng giai cấp ngày càng tăng giữa tư sản và vô sản hai ông đã rút ra kết luận quan trọng: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau” và “giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình, nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy - những công nhân hiện đại, những người vô sản”(4) - có sứ mệnh đào huyệt chôn chủ nghĩa tư bản và sáng tạo ra một xã hội mới tốt đẹp hơn. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Mặc dù nền kinh tế tư bản chủ nghĩa ngày nay đã phát triển đến một trình độ cao, tạo ra lực lượng sản xuất khổng lồ, nhưng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vẫn diễn ra hết sức gay gắt. Chủ nghĩa tư bản đã phải thường xuyên đương đầu với các cuộc khủng hoảng nặng nề, với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp của hàng chục triệu người. Phong trào công nhân tuy đứng trước những thử thách nặng nề, nhưng nhìn toàn cục của sự phát triển lực lượng sản xuất vẫn đang bị những tiền đề khách quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Cho nên, luận điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen về nền công nghiệp lớn hiện đại tạo ra những tiền đề vật chất và xã hội để thủ tiêu chế độ người bóc lột người vẫn giữ nguyên giá trị khoa học.

C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã luận chứng về tính cách mạng của giai cấp công nhân rằng, giai cấp công nhân đã được đẩy đến vị trí cách mạng một cách khách quan, vừa với tư cách là hiện thân của lực lượng sản xuất tiên tiến, vừa với tư cách là một giai cấp có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản. Hai ông chỉ rõ: “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư sản thì chỉ có giai câp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; giai cấp vô sản, trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp(5).

Giai cấp công nhân được nền đại công nghiệp “tuyển lựa” từ tất cả các giai cấp trong dân cư mà chủ yếu là nông dân. Cùng với sự phát triển không ngừng của sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân không ngừng lớn lên về mặt số lượng và chất lượng. Là giai cấp gắn liền với nền đại công nghiệp và được nền đại công nghiệp rèn luyện, tập hợp lực lượng, biểu thị sức mạnh của mình. Ở các nước tư bản hiện nay, họ vẫn là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Bị áp bức bóc lột lại có lợi ích đối lập trực tiếp với giai cấp tư sản, giai cấp công nhân kiên quyết đấu tranh chống giai cấp tư sản, và có khả năng đoàn kết cùng với quần chúng bị áp bức bóc lột trong cuộc đấu tranh chung. C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra rằng, khi cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến mức quyết liệt, báo hiệu giờ tận số của chủ nghĩa tư bản, thì trong nội bộ của giai cấp tư sản sẽ có sự phân hóa và một bộ phận chạy sang hàng ngũ giai cấp vô sản. Đó là bộ phận những nhà tư tưởng tư sản đã có được nhận thức (về mặt lý luận) toàn bộ cuộc vận động lịch sử.

Như vậy, giai cấp công nhân có thể hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình, vì những tiền đề và lý do hết sức căn bản: Là giai cấp tiên tiến, gắn liền với nền đại công nghiệp, lớn lên cùng với nền đại công nghiệp, là sản phẩm đặc biệt của đại công nghiệp, đại biểu cho xu hướng tiến lên của đại công nghiệp. C.Mác và Ph.Ăng-ghen khẳng định: “Tất cả những phong trào lịch sử, từ trước đến nay, đều do thiểu số thực hiện, hoặc đều mưu lợi ích cho thiểu số. Phong trào vô sản là phong trào độc lập của tuyệt đại đa số, mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số”(6).

Trong khi chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đồng thời nhấn mạnh đến vai trò của đảng, bảo đảm cho giai cấp này có thể hoàn thành được sự nghiệp của mình. Hai ông coi Đảng Cộng sản là bộ phận không thể tách rời của giai cấp vô sản. Mục đích và lợi ích của Đảng Cộng sản và của giai cấp vô sản là thống nhất. Về cả lý luận và thực tiễn, Đảng Cộng sản luôn luôn đại biểu cho quyền lợi của giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Không thể tách rời Đảng Cộng sản ra khỏi giai cấp, hoặc ngược lại, lẫn lộn Đảng Cộng sản với giai cấp vô sản. Trong Tuyên ngôn, hai ông đã chỉ rõ: “Về mặt thực tiễn, những người cộng sản là bộ phận tiên quyết nhất, trong các đảng công nhân ở các nước; là bộ phận cổ vũ tất cả những bộ phận khác; về mặt lý luận, họ hơn bộ phận còn lại của giai cấp vô sản ở chỗ là họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả chung của phong trào vô sản”(7).

C.Mác và Ph.Ăng-ghen cũng khẳng định rằng, Đảng Cộng sản chẳng những là một bộ phận mà còn là đội tiên phong của giai cấp vô sản. Nhưng người cộng sản khác những người vô sản bình thường ở chỗ họ có tư tưởng cách mạng tiên tiến và bao giờ cũng đứng ở hàng đầu của phong trào cộng sản. Họ nhận thức rõ những bước phát triển tất yếu của quá trình lịch sử và mục tiêu tiến tới của phong trào vô sản. Do đó, họ có khả năng động viên, hướng dẫn, lôi kéo những người còn lại của giai cấp vô sản, cùng với các tầng lớp nhân dân lao động khác vào cuộc đấu tranh tự giải phóng, Với tính chất như thế, những người cộng sản là những phần tử ưu tú nhất, giác ngộ và tích cực cách mạng nhất trong các tầng lớp nhân dân lao động. Không có Đảng Cộng sản thì cách mạng không thể thành công, sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân cũng không thể thực hiện được. Đây là những vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc, là bài học còn nóng hổi mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã chỉ ra cho chúng ta.

Từ sau sự đổ vỡ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội cố tìm mọi cách để phủ nhận học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Chúng cho rằng chủ nghĩa xã hội đang “hội tụ” vào chủ nghĩa tư bản; rằng: chủ nghĩa tư bản đã thay đổi căn bản khác xa với thời C.Mác còn sống; giai cấp công nhân đã có mức sống cao, có tư liệu sản xuất, có cổ phần nên không bị bóc lột nữa. Do sự tác động của khoa học công nghệ, giai cấp công nhân ngày càng nhỏ bé vì số người sản xuất vật chất ngày một ít. Vì thế, họ cho rằng: giai cấp công nhân đang “hòa tan” vào chủ nghĩa tư bản và không còn là giai cấp trung tâm của xã hội; rằng: vai trò của công nhân đã thuộc về tầng lớp trí thức; trí thức hiện nay là chủ thể của xã hội, là lực lượng cơ bản thúc đẩy lịch sử tiến lên. Từ đó họ vội vàng đi đến kết luận: sứ mệnh lịch sử xã hội chủ nghĩa của giai cấp công nhân mà C.Mác và Ph.Ăng-ghen nêu ra trong Tuyên ngôn là không còn giá trị nữa?

Thực tế hiện nay đang phủ nhận những lập luận thù địch nêu trên. Tại các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, tuy giai cấp công nhân có mức sống cao hơn nhiều so với trước đây, nhưng vẫn bị giai cấp tư bản bóc lột với tỷ suất giá trị thặng dư ngày càng tăng. Do việc ứng dụng nhanh chóng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất nên trình độ tri thức về khoa học công nghệ của công nhân ngày càng được nâng cao. Cơ cấu thành phần công nhân cũng có sự thay đổi. Tỷ lệ công nhân trong sản xuất ngày càng nhỏ, công nhân trong các lĩnh vực thông tin, dịch vụ ngày càng lớn, và có sự chuyển hóa bộ phận giữa công nhân hiện đại với trí thức hiện đại. Xét trên khía cạnh này, khái niệm giai cấp công nhân đã được mở rộng gồm cả những người kỹ thuật viên, và một bộ phận kỹ sư, những người lao động làm thuê khác. Sản xuất vật chất của công nhân là chủ yếu và quyết định.

Thực tiễn cho thấy quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa dù có mở rộng và hiện đại đến đâu, những hình thức của nó có thay đổi như thế nào, vẫn không ngừng tái sinh ra quan hệ xã hội tư bản chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh mà giai cấp công nhân tiến hành nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, dù có trải qua những bước thăng trầm, nhưng vẫn đang diễn ra theo đúng quy luật khách quan của lịch sử.

Giữ vững lòng trung thành với học thuyết Mác, giai cấp công nhân Việt Nam luôn luôn là lực lượng đi đầu trong cuộc đấu tranh chống chế độ áp bức, bóc lột và các thế lực phản động trong cách mạng dân tộc, dân chủ và trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá: “Chỉ có giai cấp công nhân là dũng cảm nhất, cách mạng nhất, luôn luôn gan góc đương đầu với bọn đế quốc, thực dân. Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người lãnh đạo xứng đáng và tin cậy nhất của nhân dân”(8).

Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để hoàn thành được sứ mệnh nặng nề đó, giai cấp công nhân nước ta cần có bước phát triển mới về nhiều mặt. Trước hết, giai cấp công nhân cần nêu cao giác ngộ giai cấp, ý thức đầy đủ về vai trò đi đầu của mình trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và vai trò nòng cốt trong củng cố, xây dựng khối liên minh công - nông - trí thức. Mặt khác, giai cấp công nhân phải tự mình phấn đấu vươn lên cùng với sự phát triển chung của đất nước.

Ngày nay, đội ngũ giai cấp công nhân nước ta đã có bước phát triển mới về số lượng và chất lượng. Họ không chỉ là những người lao động sản xuất và dịch vụ công nghiệp thuộc các doanh nghiệp nhà nước, mà còn là người lao động trong các khu vực tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài. Số công nhân - lao động tập trung trong khu vực kinh tế nhà nước hiện nay đã lên tới khoảng 2,7 triệu người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, trong đó 1,8 triệu công nhân kỹ thuật, 1,5 triệu trung cấp chuyên nghiệp, trên 1,3 triệu người có trình độ đại học và cao đẳng, hơn 10 ngàn thạc sĩ và 12 ngàn tiến sĩ, với gần 1000 giáo sư. Bình quân có 190 cán bộ khoa học trên 10 ngàn dân, có khoảng 41 ngàn cán bộ khoa học là người thuộc các dân tộc thiểu số. Hằng năm, lao động có trình độ cao đẳng trở lên tăng 17,2%, tiến sĩ và tiến sĩ khoa học tăng 7%. Phần lớn trong số đó là lực lượng lao động có chất lượng cao của đất nước và đang là lực lượng xung kích trong cuộc cách mạng khoa học, công nghệ, quản lý, có khả năng sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, đồng thời tiếp thu, làm chủ và thích nghi với công nghệ tiên tiến, hiện đại. Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng yêu cầu rất cao sự gia tăng về chức năng “lao động trí tuệ”. Điều đó đòi hỏi người lao động phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ, phải được đào tạo và đào tạo lại liên tục. Đó là một yêu cầu khách quan, cấp thiết. Đặc biệt, hiện nay đất nước ta đang ngày càng hội nhập sâu vào kinh tế thế giới, đòi hỏi giai cấp công nhân phải vươn lên làm chủ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới; tự mình trí thức hóa, đồng thời có chính sách đoàn kết và động viên giới trí thức đem hết tâm huyết tài năng phục vụ sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước. Để đạt tới thắng lợi cuối cùng của những nguyên lý đề ra trong Tuyên ngôn, sinh thời Mác chỉ tin tưởng vào sự phát triển trí tuệ của giai cấp công nhân.

Trên cơ sở những nguyên lý đó, Đảng ta tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Phát triển nguồn nhân lực, bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng cao; tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới 50% lực lượng lao động xã hội. Tạo việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị dưới 5%. Huy động và sử dụng mọi nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực lao động chất lượng cao cho mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế để sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Điều quan trọng là, giai cấp công nhân phải ngày càng giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cách mạng, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, được tổ chức chặt chẽ và được dẫn dắt bởi một đảng tiền phong vững mạnh. Vì vậy, để xây dựng giai cấp công nhân, đòi hỏi trước hết xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có cơ sở sâu rộng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế. Đồng thời, giai cấp công nhân phải là chỗ dựa tin cậy của Đảng, góp phần xây dựng Đảng ngang tầm với những nhiệm vụ mới. Đó là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, là bộ phận giác ngộ nhất của giai cấp vô sản, vươn lên hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.

Sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước hôm nay như Tuyên ngôn đã chỉ rõ: Phải có đảng lãnh đạo, giai cấp công nhân mới làm tròn sứ mệnh tiền phong của mình. Thực tế ngày nay cho thấy, lời cảnh tỉnh hùng hồn của Ph.Ăng-ghen là hết sức đúng đắn: Bất cứ một Đảng Cộng sản nào, hễ đi chệch cương lĩnh, sách lược đó thì đều phải trả ngay một giá đắt. 161 năm đã trôi qua “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” vẫn không “lỗi thời”, không “bị lịch sử đẩy lùi về quá khứ” mà đã, đang và mãi mãi có giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn lớn lao đối với giai cấp công nhân nước ta, cũng như giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới.

(1) Mác - Ăng-ghen: Tuyển tập, Nhà xuất bản Sự thật, 1980, tr 509 - 510

(2) Xem Sđd, t 1, tr 540

(3) Sđd, t 1, tr 547

(4) Sđd, t 1, tr 549

(5) Sđd, t 1, tr 554

(6) Sđd, t 1, tr 555

(7) Sđd, t 1, tr 58

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, t8, tr 592

Về thực chất của bước chuyển sang kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay

VỀ THỰC CHẤT CỦA BƯỚC CHUYỂN SANG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Thực tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy, mô hình phát triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối cảnh của thời đại ngày nay, là mô hình hợp lý hơn cả. Ở nước ta, việc thực hiện mô hình này, trong thực tế, chẳng những là nội dung của công cuộc đổi mới, mà hơn thế, còn là công cụ, là phương thức để đi tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội.

Nền kinh tế nước ta hiện đang ở giai đoạn quá độ, chuyển tiếp từ nền kinh tế tập trung, hành chính - bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Do vậy, thực chất của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta, đương nhiên là một vấn đề đặc biệt có ý nghĩa, rất cần phải được nghiên cứu, xem xét: Nhận thức được thực chất của bước chuyển này, chi phối được nó, chúng ta sẽ tính được những sai lầm chủ quan, nóng vội duy ý chí hoặc khuynh hướng cực đoan, máy móc, sao chép, “nhập ngoại” các mô hình kinh tế thị trường ngoại lai một cách máy móc.

Đúng như ý kiến của một số nhà nghiên cứu lý luận, thực chất của bước chuyển đó trước hết là ở sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu như trước đây, nền kinh tế nước ta chỉ có một kiều sở hữu tương đối thuần nhất với hai hình thức tập thể và Nhà nước, thì hiện nay, cùng với hình thức sở hữu chủ đạo là sở hữu Nhà nước, nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác. Những hình thức sở hữu đó, trong thực tiễn vận hành của nền kinh tế, không hẳn đã đồng bộ với nhau. Song về tổng thể, chúng là những bộ phận khách quan của nền kinh tế, có khả năng đáp ứng những đòi hỏi đa dạng và năng động của kinh tế thị trường.

Điều có ý nghĩa đối với việc xác định đặc điểm của nền kinh tế quá độ ở nước ta hiện nay có lẽ vẫn là sự thừa nhận xu hướng chủ yếu trong sự vận động của nó: tiếp tục đổi mới và hoạt động có hiệu quả kinh tế Nhà nước để kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy thúc đẩy và điều chỉnh các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế đề trên cơ sở đó, giải quyết các vấn đề xã hội ngay ở tầng vĩ mô sao cho tăng trưởng kinh tế không trở nên mâu thuẫn gay gắt với trật tự bình thường của đời sống xã hội.

Đảng ta không coi cơ chế thị trường là liều thuốc vạn năng và vì vậy không khuyến khích phát triển nó về mọi phương diện. Bởi lẽ, việc tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế thị trường sẽ rơi vào một sai lầm nguy hiểm từ phía khác. Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát hết sức bướng bỉnh. Hơn thế nứa, quan hệ thị trường còn là môi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tiễn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới vừa qua cho thấy, bên cạnh tác động tích cực là cơ bản, những tác động tiêu cực do mặt trái của kinh tế thị trường gây ra cũng hết sức nghiêm trọng, đặc biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống. Chúng ta mới áp đụng cơ chế thị trường chưa được bao nhiêu, song bên cạnh những thành tựu, chúng ta đã phải trả giá không nhỏ cho những hiện tượng tiêu cực, như do cách làm ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận đã dẫn đen các hình thức lừa đảo hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, do thương mại hoá một cách tràn lan, xâm nhập cả vào các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục, văn hoá… đã làm cho các giá trị đạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng tiền đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu nghèo và bất công xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày càng tăng… Bởi vậy, Đảng ta chỉ rõ: vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền kinh tế thị trường là để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội chứ không đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đó là xu thế phân hoá giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức, nhân phẩm… Đi vào kinh tế thị trường phải kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tôi đa nhưng khuynh hướng tiêu cực đó.

Cũng phải thừa nhận rằng, các vấn đề nói trên, dù ít dù nhiều cũng là các vấn đề của bản thân cơ chế quản lý. Trong nền kinh tế hiện nay của ta, cơ chế quản lý đang ở giai đoạn hình thành nên thường là không đồng bộ, thiếu hụt. Chúng ta chưa thực sự tạo ra môi trường an toàn và ổn định cho sản xuất và kinh doanh. Cơ sở pháp lý của các hoạt động kinh tế còn có nhiều điều bất cập. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, phân cấp quản lý… còn nhiều điều bất hợp lý. Do vậy, trong một số vụ án kinh tế, cơ chế quản lý đôi khi vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của kinh tế thị trường. Tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên cả phương điện pháp lý lẫn trên phương diện kinh tế - xã hội dường như đang là một cái gì đó rất phổ biến, rất đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta.

Rõ ràng là cơ chế vận hành của nền kinh tế nước ta đang trong quá trình tiến tới một cơ chế thị trường đích thực, văn minh, nhưng hiện tại vẫn còn mang dấu ấn của cơ chế kinh tế cũ. Cơ chế quản lý kinh tế mới bước đầu đã hình thành nhưng chưa đồng bộ, đang ở giai đoạn sơ khai, mang nhiều yếu tố tự phát, chưa tạo được môi trường thực sự lành mạnh và an toàn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là với vẫn còn những yếu kém cả về mặt chính sách lẫn pháp lý hướng dẫn nền kinh tế. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế biểu hoạch hoá, quy hoạch, xây dựng, quản lý đất đai, thủ tục hành chính… đã đổi nhưng chưa theo kịp đòi hỏi của thực tiễn. Lĩnh vực quản lý xuất nhập khẩu có những sơ hờ, tiêu cực, một số trường hợp đã gây tác động xấu đối với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý. Vẫn còn hiện tượng bội chi ngân sách và nhập siêu.

Cần thiết phải lưu ý rằng, khác với cơ chế hành chính - bao cấp, cơ chế thị trường với các quy luật khách quan của nó, thường biểu hiện ra như là một cơ chế tự phát hơn, tự nhiên hơn và nằm xa sự chi phối của con người hơn. Bởi vậy, trong nền kinh tế nước ta hiện nay, việc nắm được các yếu tố tự giác và tự phát của nền kinh tế hiểu được phương thức hoặc tìm ra được phương pháp kiểm soát thích hợp là điều hết sức có ý nghĩa. Thực tế những năm đổi mới vừa qua chứng tỏ rằng, trong một số quá trình kinh tế - xã hội nhất định, chúng ta đã thực sự làm chủ được những tác động tự giác cũng như những tác động tự phát của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng có quá nhiều hiện tượng và quá trình mà chúng ta còn buông lỏng sự kiểm soát hoặc chưa thực sự có khả năng kiểm soát sự vận động của chúng.

Trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc chúng ta bước đầu sử dụng thị trường như là một công cụ, một phương thức để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, trên thực tế, đã đem lại những kết quả tích cực cả về phương diện thực tiễn lẫn phương diện nhận thức:

Thực tiễn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước đã cho chúng ta thấy, sản xuất hàng hoá cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường không đối lập với chủ nghĩa xã hội, rằng nền kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Là sản phẩm của nền văn minh nhân loại, là cơ hội để các cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là xu thế phát triển khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Tuy nhiên, nhận ra sức mạnh của cơ chế thị trường bao nhiêu, chúng ta cũng hiểu rõ hơn bấy nhiêu mặt trái của nó đối với sự vận động của đời sống xã hội. Sự tăng trưởng kinh tế đương nhiên là một mục tiêu của phát triển xã hội, nó có khả năng tạo ra điều kiện để giải quyết các vấn đề xã hội. Nhưng tăng trưởng kinh tế không nhất thiết đi liền với tiến bộ xã hội. Do vậy, trong quan niệm của Đảng ta, để thực hiện sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chú, văn minh, thì kinh tế thị trường nhất thiết phải có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, cơ chế thị trường ở nước ta tuy đã hình thành, nhưng còn ở giai đoạn sơ khai, còn mang nhiều yếu tố tự phát. Cơ chế, chính sách kinh tế chậm đổi mới, cải cách hành chính còn chậm chạp đang là trở ngại cho đổi mới và phát triển kinh tế. Tại hội thảo khoa học về kinh tế thị trường, Hội đồng lý luận Trung ương nhận định rằng: “Chúng ta đã chuyển một bước quan trọng sang kinh tế thị trường, nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy, còn đan xen nhưng yếu tố của nền kinh tế chuyển đổi. Những yếu tố của nền kinh tế thị trường văn minh còn ít hơn là những yếu tố sơ khai”.

Thành tựu của 15 năm đổi mới vừa qua đều có tác dụng làm cho chúng ta quen dần với các quan hệ hàng hoá. Hàm lượng kinh tế trong các hoạt động xã hội ngày càng được chú ý. Tuy nhiên, mặc dù đã trải qua một số năm cải cách, đổi mới song nền kinh tế nước ta vẫn đang trong quá trình chuyền từ cơ chế quản lý hành chính – bao cấp sang cơ chế thị trường. Đó là quá trình mà cơ chế cũ ít nhiều vẫn còn là thói quen chưa dễ xoá bỏ. Do vậy, cơ chế cũ và cơ chế kinh tế mới đang đan xen vào nhau, có chuyển hoá lẫn nhau, cái cũ dần dần nhường chỗ cho cái mới ra đời và phát triển, nhưng cũng có sự chi phối, khống chế lẫn nhau. Rõ ràng là cơ chế thị trường hiện nay ở nước ta vẫn còn đang ở những bước sơ khai, đòi hỏi phải được hoàn thiện theo xu hướng thị trường văn minh. Mặc dù đã có những yếu tố của thí trường hiện đại xuất hiện trong nền kinh tế nước ta (chúng ta đã tham gia buôn bán với nhiều nền kinh tế phát triển, đã là thành viên chính thức của khối ASEAN, đã gia nhập khu vực mậu địch tự do AFTA và sẽ tham gia nhiều liên minh kinh tế khác nữa với chủ nghĩa tư bản hiện đại), nhưng tính chất quá độ của nền kinh tế đang tiến tới cơ chế thị trường vẫn còn khá rõ. Về thực chất của bước chuyển này, chúng tôi đồng ý với ý kiến cho rằng: “ở Việt Nam, dù nền kinh tế thị trường chỉ mới vừa được hình thành, còn đang trong những bước chập chững ban đầu và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa, song cũng đã tác động khá rõ nét đến mọi mặt đời sống xã hội và để lại ở đó những dấu ấn của mình về mặt văn hoá… Tác động đáng quan tâm nhất của cơ chế thị trường là nó tạo ra ở Việt Nam những quan hệ mà ở đó vừa có mầu sắc thỉ trường, lại vừa chưa phải là quan hệ thị trường. Sự đan xen, chi phối mãnh hệt trong bối cảnh của một xã hội vừa ra khỏi cơ chế hành chính - bao cấp đã làm cho cơ chế thị trường bị “khúc xạ” theo nhiều chiều hướng khác nhau.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định nền kinh tế thị trường mà chúng ta cần xây dựng là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế đó là:”Phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hưu, quản lý và phân phối”.

SOURCE: TẠP CHÍ TRIẾT HỌC (SỐ PHÁT HÀNH CHƯA XÁC ĐỊNH)

Vấn đề phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và nâng lên tầm cao mới trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam của Hồ Chí Minh

Vấn đề phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và nâng lên tầm cao mới trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam của Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài của nhân dân Việt Nam, nhà văn hoá lớn của thế giới. Người không chỉ truyền bá, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, đưa Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, mà Người còn phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin lên một tầm cao mới.

1. Khi phân tích những mâu thuẫn của CNTB, C.Mác và Ph. Ăngghen đã tiên đoán khả năng cách mạng nổ ra trước tiên ở các nước tư bản phát triển nhất, nơi những tiền đề vật chất của CNXH đã đạt đến độ chín muồi nhất định. Mới đầu các ông cho rằng cách mạng sẽ nổ ra ở Anh, Pháp, sau đó là Đức. Theo các ông, giữa xã hội tư bản và xã hội cộng sản là một thời kỳ cải tiến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và Nhà nước của thời kỳ ấy là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. Nhưng đến năm 1877, hai ông lại cho rằng cách mạng sẽ nổ ra ở phương Đông mà Nga là nước tiên phong. C.Mác tán thành ý kiến của Sécnưsepxki cho rằng nước Nga có thể không cần phải trải qua những đau khổ của chế độ tư bản mà vẫn chiếm đoạt được mọi thành quả của chế độ ấy. Như vậy, về cơ bản, lý luận của hai ông đều cho rằng các nước tư bản phát triển có thể đồng loạt tiến lên XHCN. Tuy nhiên, các ông cũng dự báo khả năng phát triển rút ngắn như nước Nga.

Thời C.Mác và Ph. Ăngghen, hệ thống thuộc địa của CNTB đã được mở rộng, nhưng cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc chưa phát triển mạnh, bởi vậy, theo các ông, vận mệnh loài người, tương lai của cách mạng giải phóng dân tộc vẫn phần lớn phụ thuộc vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển.

Sang thời Lênin, khi phân tích CNTB ở giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, ông cho rằng CNXH có thể thắng lợi thậm chí trong một nước tư bản tách riêng (một mắt xích trong sợi dây truyền), và ông nêu ra tư tưởng trong những điều kiện lịch sử nhất định, những nước lạc hậu có thể phát triển rút ngắn, bỏ qua, không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN. Những điều kiện đó là gì?

a) Phương thức sản xuất bị bỏ qua đã tỏ ra lỗi thời về mặt lịch sử.

b) Có sự giúp đỡ của giai cấp công nhân đã giành được thắng lợi ở nước tư bản phát triển hơn.

c) Có đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân với đầy đủ kinh nghiệm và quyết tâm cùng toàn dân làm cuộc cách mạng giành được chính quyền về tay mình.

Thời Lênin, cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản, nên ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc cần phải liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở các thuộc địa. Bởi vậy, thay thế cho khẩu hiệu thời C.Mác "Vô sản tất cả các nước liên hợp lại", ông đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại".

Hồ Chí Minh trên góc độ của người thuộc địa, góc độ của các dân tộc bị áp bức đã phê phán một cách có căn cứ và hết sức sâu sắc chủ nghĩa đế quốc và đã chỉ ra rằng sức sống của chủ nghĩa đế quốc một phần quan trọng nằm ở thuộc địa. Người nói: "Hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc"(1274). Đây là điều quan trọng mà Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó, Người viết: "CNTB là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái cái vòi kia vẫn tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị cắt đứt sẽ lại mọc ra"(1298). Tư tưởng này là sự cụ thể hoá và chứng minh cho quan điểm của Lênin về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản của các nước thuộc địa và các dân tộc bị áp bức để tiêu diệt CNTB - con đỉa có hai vòi. Người cho rằng cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng giải phóng dân tộc như đôi cánh của một con chim. Từ đó Người đi đến kết luận: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản", và Người đã gắn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân với cách mạng vô sản, gắn giải phóng dân tộc với CNXH, mang lại sự giải phóng triệt để cho con người Việt Nam.

2. Chủ nghĩa Mác-Lênin đề cao vấn đề giai cấp, còn ở Hồ Chí Minh, vấn đề giai cấp gắn bó mật thiết với vấn đề dân tộc, không có giai cấp chung chung đứng ngoài dân tộc, hai cái đó liên hệ với nhau một cách uyển chuyển và biện chứng. Trong hoàn cảnh mất nước thì quyền lợi dân tộc được đặt lên trên quyền lợi giai cấp, vì có giải phóng dân tộc mới giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp, tạo tiền đề, điều kiện thuận lợi để giải phóng giai cấp. Theo Người, nếu không giải quyết được vấn đề giải phóng dân tộc, không đòi được tự do cho dân tộc thì chẳng những quốc gia dân tộc còn chịu mại kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không lại được. Không nên thấy người ta làm thế nào mình cũng làm như thế, người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh. Ngoài ra, trên cơ sở phân tích xã hội phương Đông, Người còn cho rằng đấu tranh giai cấp ở các nước phương Đông không quyết liệt như ở phương Tây, còn ở Việt Nam, chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của lịch sử. Bởi vậy, theo Người, "cần phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản, đó là một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời, vì người ta sẽ không thể làm gì được cho người An nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại và duy nhất của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của ta thắng lợi, phần lớn thế giới sẽ Xô viết hoá và lúc đó chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế, còn sự nghiệp của người bản xứ gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản toàn thế giới (1,469). Như vậy, ở Hồ Chí Minh, dân tộc và giai cấp liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau, có điều ở mỗi thời điểm lịch sử cụ thể thì cái nào nổi trội hơn nhằm đạt đến mục tiêu chiến lược và sách lược cụ thể. Thực tiễn cách mạng 75 năm qua đã chứng minh cho sự đúng đắn của quan điểm này.

3. Nếu như C. Mác tán thành quan điểm của Sécnưsépxki cho rằng nước Nga có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì Lênin cho rằng: "So với những nước tiên tiến, thì đối với nước Nga, bắt đầu cuộc đại cách mạng vô sản là một điều dễ dàng hơn, nhưng tiếp tục cuộc cách mạng đó đến thắng lợi cuối cùng… lại là một điều khó khăn hơn" (2,478). Như vậy, theo Lênin, so với những nước tư bản tiên tiến, Nga làm cách mạng vô sản dễ hơn nhưng để đi đến thắng lợi cuối cùng thì lại khó khăn hơn. Khó đến mức mà hiện nay nước Nga xã hội chủ nghĩa là không còn nữa. Nghiên cứu tình hình cụ thể các nước phương Đông, Hồ Chí Minh cho rằng với những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập dễ dàng vào Châu Á, dễ dàng hơn là ở Châu Âu”(1,36). Như vậy, theo Bác, chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào Châu Á dễ dàng hơn Châu Âu. Điều này hoàn toàn có căn cứ, có cơ sở khoa học.

Như chúng ta đã biết, điểm khác biệt giữa Á với Âu, Đông và Tây là ở chỗ ảnh hưởng của cái gọi là phương thức sản xuất Châu Á lâu dài, dai dẳng, đã tạo nên một đặc điểm đặc trưng của phương Đông là việc không có sở hữu tư nhân về ruộng đất, cái mà C.Mác gọi là cơ sở, còn Ph.Ăngghen gọi là chiếc chìa khoá để hiểu toàn bộ phương Đông. Trong Kinh Thư có ghi: "Phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ, suất hải chi tân mạc phi vương thần" nghĩa là đất đai dưới trời đâu chẳng là của vua, người trên đất đai ấy ai chẳng phải là thần dân của vua. GS. Trần Đình Hượu cho rằng cùng với chế độ "'lãnh hữu” chứ không phải "sở hữu” và ruộng đất các nước phương Đông để tiến lên CNXH, hơn CNTB.

Nhưng để tiến lên CNXH và xây dựng thành công CNXH là hai việc khác nhau. Cái thứ nhất suy cho cùng nghiêng về tiền đề, cái thứ hai mới là mục đích Hồ Chí Minh cho rằng thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều, rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất nhưng là cuộc cách mạng gay go nhất, phức tạp, khó khăn nhất, là cuộc chiến khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Qua thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta trong những năm qua, chúng ta càng thấm thía tư tưởng của Người.

4. Chủ nghĩa Mác - Lênin qua lăng kính của Người trở thành một cái gì đó cực kỳ dễ hiểu, giản dị, dung dị, gần gũi đối với tất cả mọi người. Chẳng hạn, quan hệ giữa cán bộ, Đảng, Nhà nước và nhân dân được người mô tả bằng hình ảnh vô cùng quen thuộc: dân là nước, cán bộ là cá, Nhà nước, cách mạng là thuyền, đường lối là la bàn, Đảng như người cầm lái (hay trí tuệ con người cầm lái). Như chúng ta thấy, cá tách khỏi nước sẽ chết. Nước có thể chở thuyền nhưng cũng có thể lật thuyền. Thuyền không có la bàn không biết đi đâu. Thuyền không có người cầm lái thì không chuyển động. Như vậy, thật vô cùng dễ hiểu, không có dân là không có tất cả, dân là gốc, là cơ sở, nước ấy dân làm gốc.

Gốc có vững cây mới bền
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân

Từ đó Người đưa ra tư tưởng dân là chủ, Chính phủ là đầy tớ của dân và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người cho rằng thực hiện dân chủ là chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn. Hay một hình ảnh nữa, đoàn kết hay không đoàn kết, được Người ví như một bó đũa và một chiếc đũa đơn lẻ. Từ đó Người cho rằng đoàn kết tạo nên sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi, là thành công.

Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công đại thành công

Bởi vậy, chủ nghĩa Mác- Lênin trở nên gần gũi với những người dân lao động bình thường. Bác giải thích thế nào là chủ nghĩa Mác -Lênin, tsách vở mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác-Lênin được, hay hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân, phụng sự Tổ quốc, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin. Bác cho rằng muốn giữ gìn sự trong sáng của chủ nghĩa Mác –Lênin thì trước hết tự mình phải trong sáng (xem 4,272)

5. Chủ nghĩa Mác-Lênin có bàn đến đạo đức giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Mặc dù đã vạch ra được những nguyên lý nền tảng của đạo đức nhưng vẫn còn khá chung chung, chưa thật cụ thể.

Giống như C.Mác phê phán Hêghen, Người cho rằng đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo đức không phải từ trên trời rơi xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển. Đạo đức là nền tảng của người cách mạng, nó giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Hồ Chí Minh đã nhìn ra đạo đức có thể nhân gấp 10 lần sức mạnh con người, đã nhìn ra ở phương Đông một tấm gương có giá trị gấp trăm bài diễn thuyết, bởi vậy, Người chú trọng vấn đề đạo đức, đặc biệt xây dựng mẫu người toàn diện cả đức lẫn tài, cả tâm hồn lẫn trí tuệ và sức khoẻ, phải trung với nước, hiếu với dân, phải thương yêu con người, phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, phải có tinh thần quốc tế trong sáng. Đối với Người, nói là phải đi đôi với với làm, phải làm gương "Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” xây đi đôi với chống và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong.

6. Trên cơ sở phân tích tình hình xã hội phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, Người cho rằng cuộc đấu tranh giai cấp ở đây không diễn ra giống như ở phương Tây. Vậy không giống ở điểm nào? Người cho rằng về phía Việt Nam người lao động, đó là sự không giác ngộ, sự nhẫn nhục và vô tổ chức, còn về phía bọn chủ thì không có máy móc, ruộng đồng thuộc sở hữu của những địa chủ hạng trung, hạng nhỏ và những kẻ ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt bên cạnh những người trùng tên với họ ở Châu Âu và Châu Mỹ, không có tỷ phú người An Nam. Những tên trọc phú ở đó thì ở đây chỉ là những kẻ thực lợi khá giả thôi. Cho nên, nếu nông dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa, nếu thợ thuyền không biết mình bị bóc lột bao nhiêu thì chủ lại không hề biết công cụ để bóc lột của họ là máy móc, người thì chẳng có công đoàn, kẻ thì chẳng có Tơrớl. Người thì nhẫn nhịn chịu số phận của mình, kẻ thì vừa phải trong sự tham lam của mình, sự xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó không thể chối cãi được. Từ đó Người kết luận: "Xã hội Đông Dương, Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây" (1,465).

Từ phân tích về giai cấp xã hội các nước phương Đông và Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi gần đến cái mà C.Mác gọi là phương thức sản xuất Châu Á vốn coi trọng là tính tự trị độc lập, biệt lập của công xã. Cái đặc trưng này theo Người dẫn đến sự thiếu tin cậy lẫn nhau, từ đó là nguyên nhân gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông. Người viết: "Nguyên nhân đầu tiên đã gây ra sự suy yếu của các dân tộc phương Đông, đó là sự biệt lập. Họ hoàn toàn không biết đến những việc xảy ra ở các nước láng giềng gần gũi nhất của họ, do đó họ thiếu sự tin cậy lẫn nhau, sự phối hợp hành động và sự cổ vũ lẫn nhau (1,263).

Với tính cách đặc thù đó, Người đã đặt ra một vấn đề hoàn toàn chính xác khi cho rằng C.Mác cho ta biết sự tiến triển của các xã hội trải qua ba giai đoạn: "Chế độ nô lệ, chế độ nông nô, chế độ tư bản, và trong mỗi giai đoạn ấy, đấu tranh giai cấp có khác nhau. Chúng ta phải coi chừng! Các dân tộc Viễn Đông có trải qua hai giai đoạn đầu không?"(1,465). Bởi lẽ, ở phương Đông do ảnh hưởng của cái gọi là phương thức sản xuất Châu Á kéo dài dai dẳng từ sau khi tan rã của công xã nguyên thuỷ cho đến tận những năm đầu của thế kỷ XIX, nên xã hội ở phương Đông và Việt Nam không thật điển hình như ở phương Tây (nếu theo hệ quy chiếu phương Tây). Một số học giả khác lại cho rằng Việt Nam, Mông Cổ và cả Nga không trải qua chế độ nô lệ, thậm chí có người còn cho rằng Việt Nam không có chế độ phong kiến. Từ đó Hồ Chí Minh cho rằng tùy hoàn cảnh mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau "Ta không giống Liên Xô... ta có thể đi con đường khác để tiến lên CNXH” (6, 227). Hồ Chí Minh cho rằng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà C.Mác ở thời mình không có được. Người cho rằng “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông, đó chính là nhiệm vụ của các Xô viết” (1,465). Tại sao lại như vậy? Theo người: “C.Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại” (1,465). Qua đây ta đã thấy Người đã phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện cụ thể của các nước phương Đông và Việt Nam như thế nào. Điều này hoàn toàn xa lạ với cái gọi là khuynh hướng xét lại chủ nghĩa Mác.

Ngày nay trong công cuộc CNH-HĐH, thiết nghĩ những người giảng dạy và nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin học tập tinh thần phát triển sáng tạo ở Người để góp phần nhanh chóng đưa nước ta đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.


Triết học và đời sống